Mới
đây, nhạc sĩ Tuấn Khanh có bài viết“Di chúc Bắc kỳ tự do” tán phát trên mạng
Internet, bản chất sự kiện di cư 1954.
Đối
với kẻ hợm hĩnh, đã ngu nhưng cố tỏ ra nguy hiểm, chúng ta chẳng cần nhắc đến.
Anh ta chả là gì trong cộng đồng này. Nhưng nên nhắc lại cho những ai chưa rõ
về sự kiện di cư 1954. Chuyện là thế này:
Sau trận Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp,
tạm thời chia đôi Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự tại vĩ tuyến 17.
Hệ thống bộ máy dân sự và lực lượng quân sự của chính quyền Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa được tập trung ở miền Bắc và hệ thống bộ máy dân sự và lực lượng quân
sự của chính quyền Liên hiệp Pháp được tập trung ở miền Nam, chờ
ngày tổng tuyển cử tự do dự kiến sẽ xảy ra vào ngày 20 tháng 7
năm 1956.
Hiệp
định cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý
tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức
chấm dứt vào ngày 19 tháng 5, 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100
ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày.
Để
giám sát thực thi hiệp định, Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến được thành lập
theo điều 34 của hiệp định với đại diện của ba nước Ấn Độ,
Ba Lan,
và Canada.
Dưới
nhãn quan của giới cầm quyền Washington, việc
tiến hành tổng tuyển cử đồng nghĩa với thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Để điều này không diễn ra, Tổng thống Mỹ, Eisenhower đã tính đến kế hoạch di cư
của đồng bào miền Bắc vào Nam.
Với
nhãn quan chính trị như vậy, khi Hiệp định Giơnevơ còn chưa ráo mực, Mỹ và
chính quyền Ngô Đình Diệm bắt tay ngay vào việc thực thi kế hoạch này.
Chính
sách di cư của Mỹ - Diệm nhằm đạt ba mục đích cơ bản sau:
Một
là, về mặt chính trị, đối với thế giới, Mỹ và tay sai cố tạo ra dư luận xấu về
chế độ của Việt Nam ở miền Bắc nhằm ngăn chặn sự ủng hộ của nhân dân thế giới
đối với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta; tạo ra ảnh hưởng
xấu của cách mạng Việt Nam đối với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Hai là,
về kinh tế - xã hội, đối với miền Bắc, Mỹ - Diệm hi vọng rút được một số lượng
trí thức, công nhân kĩ thuật vào Nam, tạo ra những xáo động lớn, phá hoại sản
xuất, làm cho miền Bắc không ổn định về kinh tế, khiến cho lòng người li tán,
nội bộ lục đục, gây khó khăn cho ta trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và
hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Đối với miền Nam, vùng bị tạm chiếm, dân di
cư sẽ là nguồn cung cấp nhân công rẻ mạt cho các đồn điền cao su, cà phê, cây
ăn quả và một số cây công nghiệp mới du nhập sau Chiến tranh thế giới thứ hai ở
miền Nam.
Ba là,
ở miền Nam, với số người di cư, Mỹ - Diệm nhằm “thăng bằng sự chênh lệch giữa
dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11 triệu”. Điều này có nghĩa là
“tăng thêm hi vọng của thắng lợi tổng tuyển cử đối với những lãnh tụ quốc gia,
đồng thời tạo ra cơ sở xã hội vững chắc cho chế độ Diệm. Đồng bào di cư là
nguồn nhân lực quan trọng đáng kể để xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy
quyền.
Để chuẩn bị cho những chiến dịch di cư, Mỹ - Diệm đã thành
lập các tổ chức, các cơ quan chuyên chỉ đạo, đôn đốc, giúp đỡ di cư. Ngày
9-8-1954, tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm kí quyết định thành lập Phủ Tổng ủy di cư
tị nạn do Bùi Văn Lương đứng đầu, với nhiệm vụ điều khiển việc di cư từ Bắc vào
Nam. Bên cạnh Phủ Tổng ủy di cư tị nạn, một tổ chức cứu trợ di cư cũng được
thành lập do Linh mục Phạm Ngọc Chi đứng đầu. Sau đó, chúng còn thành lập “Hội
đồng di cư Bắc Việt” lo việc huấn luyện gián điệp, tổ chức hoạt động dụ dỗ,
cưỡng bức di cư… Bộ máy ngụy quyền được tập trung ở mức cao độ cho chiến dịch
cưỡng ép di cư.
Trước hết, Mỹ - Diệm tuyên truyền, xuyên tạc chính sách
của Đảng và Nhà nước ta, như cộng sản là vô thần nên sẽ cấm đạo, bỏ tù những
người từng theo Pháp. Ngoài ra, chúng còn cố tình đặt ra những chuyện khủng
khiếp để lung lạc quần chúng nhân dân.
Một thủ đoạn khác là Mỹ - Diệm lợi dụng những sai lầm của
Việt Nam dân chủ cộng hòa trong cải cách ruộng đất, tuyên truyền gây cho nhân
dân hoang mang, sợ sệt và mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước, Mỹ - Diệm còn
triệt để khai thác việc những địa chủ gian ác làm tay sai cho đế quốc bị đấu tố
trong cải cách ruộng đất, để dọa dẫm rằng ở lại miền Bắc, những người hợp tác
với đối phương sẽ bị trả thù.
Thâm độc nhất là Mỹ - Diệm nắm bắt được sự hiểu biết hạn
chế của giáo dân và dựng lên hình ảnh: “Đức Mẹ và con trai là Chúa Giêsu đã vào
Nam”, rằng “nếu họ ở lại dưới chính quyền cộng sản họ sẽ bị bom nguyên tử huỷ
diệt và sẽ mất linh hồn”. Có nơi, địch bố trí ảnh Đức Mẹ, làm cho khi giáo dân
đến cầu nguyện trông lên ảnh thấy mắt nhấp nháy và tay cử động, rồi nhân đó nói
rằng Đức Mẹ hiện về khuyên giáo dân đi Nam.
Khi thấy tâm lý giáo dân có sự dao động, địch dùng biện
pháp rút cha cố đi rồi cho tay sai lôi kéo con chiên đi sau. Mỹ - Diệm còn ra
lệnh chuyển địa điểm các kì thi vào Nam, đóng cửa, phá phách các trường học,
buộc thầy giáo và học trò phải đi theo chúng.
Về kinh tế: Thứ nhất, Mỹ - Diệm tuyên truyền rằng vào Nam
sẽ có tự do, đời sống sung túc. Uỷ ban Trung ương di cư của Diệm ra lời kêu
gọi: “Hỡi anh chị em Gia tô giáo, hàng trăm máy khổng lồ đang đợi chờ để chuyên
chở miễn phí các anh chị em vào Sài Gòn, ở miền Nam. Ở đó, anh chị em sẽ được tặng ruộng đất phì nhiêu…
Nếu ở lại miền Bắc, anh chị em sẽ gặp nạn đói và linh hồn sẽ sa hoả ngục”, rằng
“nông dân vào Nam sẽ có mỗi người 3 mẫu ruộng, 2 con trâu, nhà cửa sẵn”.
Thứ hai, đối tượng mà Mỹ - Diệm tập trung cưỡng ép di cư
vào Nam bao gồm ngụy binh và gia đình của họ, giáo dân, thanh niên, công chức,
giáo viên, những người trí thức và nhà chuyên môn… Để cưỡng bức được nhiều đồng
bào di cư vào Nam, sau Hiệp định Giơnevơ, địch đóng cửa Ngân hàng Đông Dương,
không cho rút tiền ra rồi sau đó chuyển tiền vào Nam, buộc những người gửi phải
vào Sài Gòn để lĩnh.
Thứ ba, Mỹ - Diệm bày trò làm công tác từ thiện, phát
chẩn gạo cho một số người túng thiếu. Khi họ đưa thẻ ra lĩnh, chúng đóng dấu
dòng chữ “đồng ý đi Nam” vào rồi cho mật thám, công an ra sức “hỏi thăm”, lùng
bắt những người này hoặc thưởng tiền cho những kẻ thừa hành nếu “rủ được một
thanh niên hay phụ nữ đi thì được thưởng từ 300 đến 800 đồng”.
Thứ tư, tay chân của Mỹ - Diệm còn tìm mọi cách làm cho
tài sản của giáo dân trở nên khánh kiệt, không còn một chút gì để hi vọng trở
lại quê hương, như bắt giáo dân phải bán nhà cửa, đồ đạc, trâu bò, thuyền lưới,
ngăn cấm đồng bào đi làm ăn hoặc đi buôn các nơi, không cho thuê mướn người làm
việc. Thâm độc hơn, địch thả côn trùng xuống một số địa phương để phá hoại sản
xuất, phá hoại mùa màng. Có nơi địch cho tay chân “lén lút tháo nước làm cho
ruộng khô, vài nơi chúng phá bờ cho nước mặn vào…” như ở Tĩnh Gia (Thanh
Hoá).
Chính phủ Mỹ đã bỏ ra 55 triệu đô la, Pháp chi 66 tỷ
phrăng cho việc thực hiện chiến dịch này.
Các tài liệu của Mỹ về cuộc di cư này hoàn toàn đúng như
vậy. Tại miền Bắc Việt Nam trong thời gian này có Edward Lansdale, chuyên gia tình báo Mỹ hoạt động , với nhiệm vụ làm suy
yếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng mọi cách có thể. Lansdale và nhóm của ông đã
thực hiện một chiến dịch tuyên truyền miêu tả rằng các điều kiện sắp tới dưới
chính quyền Việt Minh sẽ ác nghiệt hết mức có thể.
Tất cả
những điều nhạc sĩ Tuấn Khanh viết không ăn nhập với thực tế cũng là điều dễ
hiểu bởi vì, năm 1954, anh ta mới 14 tuổi, chưa đủ để có thể nhận thức đầy đủ
vấn đề của xã hội. Hiện nay, anh ta cũng chỉ là một nhạc sĩ có chút tiếng tăm
trong giới trẻ. Có lẽ, anh ta muốn tỏ cái sự thông manh của mình nên đã cho ra
đời bài viết quái dị trên.
Thật
tiếc, anh ta đã tự tay làm hỏng hình ảnh bản thân trong giới văn nghệ chân
chính.